Chi tiết
Thành phần - hàm lượng: Cho 1 ống Etanercept 25mg
Dạng bào chế: Bột pha tiêm 25 mg
Qui cách đóng gói: Khay 1 ống 25 mg bột + 1 ống 1 ml nước pha tiêm
Chỉ định
Điều trị các dấu hiệu và triệu chứng và ngăn chặn sự thoái hóa về cấu trúc ở bệnh nhân trưởng thành bị avtive viêm khớp dạng thấp từ vừa đến nặng. ENBREL có thể dùng phối hợp với methotrexate cho những bệnh nhân không có đáp ứng phù hợp với methotrexate đơn thuần.
Điều trị viêm đa khớp mãn tính tiến triển ở người trẻ cho bệnh nhi từ 4 đến 17 tuổi không có đáp ứng thích hợp hoặc không dung nạp với methotrexate. ENBREL chưa được nghiên cứu ở những bệnh nhi dưới 4 tuổi.
ENBREL được chỉ định trong giảm dấu hiệu và triệu chứng viêm khớp tiến triển ở bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp vảy nến. ENBREL có thể được dùng phối hợp với methotrexate cho những bệnh nhân không đáp ứng với methotrexate đơn trị.
Điều trị dấu hiệu và triệu chứng của viêm cứng khớp đốt sống tiến triển ở bệnh nhân trưởng thành không có đáp ứng với trị liệu thông thường.
Điều trị cho bệnh nhân mảng vảy nến từ vừa đến nặng không đáp ứng hoặc có chống chỉ định hoặc không dung nạp với các trị liệu hệ thống có cyclosporine, methotrexate hoặc PUVA.
Chống chỉ định
Nhạy cảm với hoạt chất chính hay với một trong các tá dược.
Nhiễm trùng máu hoặc có nguy cơ nhiễm trùng máu (xem phần Chú ý đề phòng & thận trọng lúc dùng và Tác dụng ngoại ý).
Không nên bắt đầu điều trị với ENBREL cho những bệnh nhân bị nhiễm trùng tiến triển bao gồm nhiễm trùng cấp hoặc nhiễm trùng tại chỗ.
Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng
Nhiễm trùng
Nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng nghiêm trọng (tử vong, đe dọa tính mạng hoặc phải nhập viện hoặc truyền kháng sinh qua tĩnh mạch) đã được báo cáo khi sử dụng ENBREL (xem phần Tác dụng ngoại ý). Nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng đã xảy ra với những bệnh nhân bị những bệnh tiềm ẩn phụ thêm vào viêm khớp dạng thấp có thể làm cho bệnh nhân có khuynh hướng bị nhiễm trùng. Những bệnh nhân bị nhiễm trùng mới khi đang điều trị với ENBREL nên được theo dõi cẩn thận. Nên ngưng thuốc ENBREL nếu bệnh nhân bị nhiễm trùng trầm trọng. Bác sỹ nên thận trọng khi xem xét khả năng điều trị ENBREL cho bệnh nhân có bệnh sử tái phát hoặc nhiễm trùng trầm trọng hoặc có bệnh tiềm ẩn có thể gia tăng nguy cơ nhiễm trùng cho bệnh nhân như là bệnh tiểu đường tiến triển hoặc kiểm soát kém.
Điều trị cùng lúc ENBREL và Anakinra
Điều trị cùng lúc ENBREL và Anakinra làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nặng và giảm bạch cầu trung tính so sánh với chỉ điều trị với ENBREL. Sự kết hợp này chưa được chứng minh làm tăng lợi ích lâm sàng. Như vậy, sử dụng kết hợp ENBREL và Anakinra không được khuyến khích (xem phản tương tác với các thuốc khác và các dạng tương tác thuốc và hiệu quả không mong muốn).
Phản ứng dị ứng
Các phản ứng dị ứng kết hợp với ENBREL đã được báo cáo rộng rãi. Các phản ứng này bao gồm phù mạch và mề đay; các phản ứng trầm trọng đã xảy ra. Nếu có bất kỳ dị ứng nghiêm trọng hay sốc phản vệ, nên ngưng điều trị với ENBREL ngay lập tức và bắt đầu trị liệu thích hợp.
Ức chế miễn dịch
Có khả năng các trị liệu chống TNF, bao gồm ENBREL, ảnh hưởng tới sự bảo vệ của ký chủ chống lại sự nhiễm trùng và các bệnh ác tính bởi vì TNF làm trung gian cho phản ứng viêm và điều biến các đáp ứng miễn dịch tế bào. Đã ghi nhận các báo cáo về bệnh ác tính (bao gồm u ác tính ở vú và phổi và u hạch) trong giai đoạn sau khi đưa thuốc ra thị trường (xem phần Tác dụng ngoại ý). Trong một nghiên cứu trên 49 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp được điều trị với ENBREL, không có bằng chứng về sự ức chế tăng cảm muộn, ức chế nồng độ globulin miễn dịch, hoặc biến đổi trong số lượng của hiệu quả hoặc dân số tế bào.
Về phần được kiểm soát của các nghiên cứu lâm sàng về các chất đối kháng TNF, u hạch xuất hiện ở các bệnh nhân được điều trị với chất đối kháng TNF hơn là những bệnh nhân nhóm đối chứng. Tuy nhiên, tần suất xảy ra hiếm và quá trình theo dõi những bệnh nhân dùng giả dược ngắn hơn là những bệnh nhân điều trị với chất đối kháng TNF. Hơn nữa, ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp với tình trạng bệnh viêm kéo dài và tiến triển, có sự gia tăng nguy cơ căn bản mắc u hạch, điều này gây khó khăn cho việc ước lượng nguy cơ. Với kiến thức hiện có, nguy cơ tiềm năng phát triển u hạch hay các u ác tính khác ở bệnh nhân điều trị với chất đối kháng TNF không thể loại trừ.
Hai bệnh nhân viêm khớp người trẻ vô căn xuất hiện thủy đậu và các dấu hiệu, triệu chứng viêm màng não vô khuẩn đã lành bệnh không để lại di chứng. Nên tạm ngừng điều trị ENBREL chi những bệnh nhân phơi nhiễm nhiều với vi rút thủy đậu và nên được xem xét điều trị dự phòng với globulin miễn dịch chống bệnh thủy đậu (Varicella Zoster).
Chưa đánh giá được hiệu quả và độ an toàn của ENBREL ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch hoặc nhiễm trùng cấp.
Tiêm chủng
Không nên tiêm vắc xin sống cùng lúc với điều trị ENBREL. Chưa có tài liệu về sự truyền bệnh thứ phát của tác nhân gây viêm nhiễm do tiêm vắc xin sống ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL. Nếu có thể, những bệnh nhân trẻ vị viêm khớp vô căn nên được tiêm ngừa tối đa theo hướng dẫn tiêm phòng hiện nay trước khi bắt đầu trị liệu với ENBREL. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, so sánh bởi giả dược trên bệnh nhân viêm khớp vảy nến, 184 bệnh nhân cũng được tiêm chủng với vắc xin đa giả chống pneumococcus vào tuần thứ 4. Trong nghiên cứu này, hầu hết bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với ENBREL có khả năng tăng sự đáp ứng có hiệu quả của tế bào đối với vắc xin đa giả chống pneumocccus, nhưng định lượng thì hơi thấp hơn và một vài bệnh nhân lại có định lượng hai lần cao hơn so với những bệnh nhân không được điều trị với ENBREL. Ý nghĩa lâm sàng của hiện tượng này vẫn chưa được rõ.
Sự hình thành kháng thể tự miễn
Điều trị với ENBREL có thể hình thành kháng thể tự miễn (xem phần Tác dụng ngoại ý)
Các phản ứng huyết học
Đã có báo cáo về những trường hợp hiếm xảy ra giảm tế bào máu toàn phần và trường hợp rất hiếm bị thiếu máu giảm sản khi điều trị với ENBREL. Nên cẩn thận khi sử dụng ENBREL cho những bệnh nhân có tiền căn loạn sản máu. Nên khuyên tất cả mọi bệnh nhân được điều trị với ENBREL đi khám ngay khi có các triệu chứng của loạn sản máu hay nhiễm trùng (VD: sốt kéo dài, đau họng, bầm máu, chảy máu, xanh xao). Những bệnh nhân này cần được khám xét ngay, bao gồm đếm máu toàn phần: nếu có loạn sản máu, cần phải ngưng điều trị ENBREL.
Các rối loạn ở hệ thần kinh trung ương
Có rất hiếm báo cáo về rối loạn mất myelin ở hệ thần kinh trung ương ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL (xem phần Tác dụng ngoại ý). Dù chưa thực hiện nghiên cứu lâm sàng đánh giá trị liệu với ENBREL ở những bệnh nhân bị đa xơ cứng, các nghiên cứu lâm sàng với các chất đối kháng TNF khác ở bệnh nhân đa xơ cứng cho thấy có làm tăng tiến triển bệnh. Nên thận trọng cân nhắc giữa nguy cơ và những lợi điểm bao gồm khảo sát thần kinh khi ra toa etanercept cho những bệnh nhân đã có hoặc mới khởi đầu mất myelin ở CNS hoặc những người được xem là có tăng nguy cơ phát triển bệnh mất myelin.
Trị liệu tổng hợp
Trong một nghiên cứu lâm sàng so sánh trên những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp kéo dài 2 năm, phối hợp ENBREL và methotrexate, không thấy những dấu hiệu kém an toàn nào, và mức độ an toàn của ENBREL khi dùng phối hợp với methotrexate cũng tương tự như trong nghiên cứu đơn trị với ENBREL hoặc với methotrexate. Những nghiên cứu dài hạn nhằm đánh giá độ an toàn của sự kết hợp vẫn đang tiếp diễn. Độ an toàn dài hạn của ENBREL khi phối hợp với các thuốc điều trị chống thấp khớp bằng cách biến đổi khác chưa được xác định.
Kết hợp ENBREL với các trị liệu hệ thống khác hoặc quang trị liệu (phototherapy) trong điều trị vảy nến chưa được nghiên cứu.
Suy thận và suy gan
Dựa trên các dữ liệu dược động học (xem phần Dược động học), không cần điều chỉnh liều cho những bệnh nhân bị suy thận hay suy gan; kinh nghiệm lâm sàng ở những bệnh nhân này còn ít.
Suy tim sung huyết tim
Nên thận trọng khi sử dụng ENBREL cho những bệnh nhân suy tim sung huyết (CHF). Đã có những báo cáo khi thuốc đã được đưa ra thị trường về tình trạng xấu đi của CHF, có và không có tác nhân làm cho bệnh trầm trọng hơn có thể nhận rõ, ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL. Hai nghiên cứu lâm sàng lớn đánh giá sử dụng ENBREL trong điều trị CHF đã kết thúc sớm vì không có hiệu quả. Dù không có kết luận nhưng dữ liệu từ 1 trong 2 nghiên cứu trên cho thấy có khả năng làm xấu đi tình trạng CHF ở những bệnh nhân được chỉ định điều trị với ENBREL.
Bệnh u hạt Wegener's
Một nghiên cứu so sánh với giả dược trong đó 89 bệnh nhân được điều trị với ENBREL bổ sung vào trị liệu chuẩn (gồm cyclophosphamide hoặc methotrexate, và glucocorticoids) trong thời gian điều trị trung bình 25 tháng, cho thấy ENBREL không có hiệu quả trong điều trị bệnh u hạt Wegener's. Tỉ lệ u ác tính không phải ở da thuộc các kiểu khác nhau cao hơn đáng kể trong nhóm bệnh nhân điều trị với ENBREL so với nhóm chứng. Không nên dùng ENBREL trong điều trị u hạt Wegener's.
Tác động trên khả năng lái xe và vận hành máy móc:
Chưa có nghiên cứu về tác động của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Không nghiên cứu về ENBREL trên phụ nữ có thai. Các nghiên cứu về phát triển độc tính thực hiện trên chuột và thỏ không thấy có bằng chứng là etanercept gây hại cho phôi hoặc chuột sơ sinh. Chưa có các dữ liệu tiền lâm sàng về độc tính của etanercept chu sinh và sau khi sinh cũng như về tác động của etanercept trên khả năng sinh sản và hoạt động sinh sản nói chung. Do đó, không nên sử dụng ENBREL cho phụ nữ có thai và phụ nữ có khả năng mang thai nên được khuyến cáo không nên có thai trong khi đang trị liệu với ENBREL
Sử dụng ENBREL khi đang cho con bú
Chưa rõ là etanercept có được tiết vào sữa hay không. Vì các globulins miễn dịch cũng như nhiều thuốc khác có thể được tiết vào sữa nên quyết định hoặc là ngưng cho con bú sữa mẹ hoặc ngưng dùng thuốc khi đang cho con bú.
Tương tác thuốc
Trong các nghiên cứu lâm sàng, không thấy có tương tác khi dùng ENBREL với glucocorticoids, salicylates (ngoại trừ sulfasalazine), các thuốc kháng viêm không có steroid (NSAIDs), thuốc giảm đau hoặc methotrexate. Xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng để có thêm thông tin về vaccine.
Trong một nghiên cứu lâm sàng với các bệnh nhân được điều trị với những liều đã xác định của sulfasalazine, có bổ sung ENBREL, những bệnh nhân trong nhóm có số lượng bạch cầu trung bình giảm đáng kể về mặt thống kê so với nhóm điều trị đơn thuần bằng ENBREL hoặc sulfasalazine. Các dấu hiện lâm sàng của tương tác này vẫn chưa rõ.
Sử dụng đồng thời ENBREL và anakinra
Khi quan sát những bệnh nhân điều trị với ENBREL và anakinra thì thấy có tỉ lệ nhiễm trùng nặng hơn khi so với những bệnh nhân chỉ dùng đơn thuần hoặc ENBREL hoặc anakinra (dữ liệu hồi cứu). Hơn nữa, trong một nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược ở những bệnh nhân có tiền sử sử dụng methotrexate, những bệnh nhân sử dụng ENBREL và anakinra có tỉ lệ nhiễm trùng nặng cao hơn (7%) và giảm bạch cầu trung tính nhiều hơn những bệnh nhân điều trị với ENBREL (xem phần Chú ý đề phòng & thận trọng lúc dùng và Tác dụng ngoại ý). Sự kết hợp ENBREL và anakinra không làm tăng hiệu quả lâm sàng do đó không nên kết hợp.
Tác dụng ngoại ý
ENBREL đã được nghiên cứu trên 2,680 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trong một nghiên cứu mù đôi mở. Thử nghiệm này bao gồm 2 nghiên cứu so sánh với giả dược (349 bệnh nhân dùng ENBREL và 152 bệnh nhân dùng giả dược) và 2 nghiên cứu so sánh với thuốc, trong đó một so sánh ENBREL với methotrexate (415 bệnh nhân dùng ENBREL và 217 bệnh nhân dùng methotrexate) và một nghiên cứu khác so sánh ENBREL (223 bệnh nhân), methotrexate (228 bệnh nhân) và ENBREL kết hợp với methotrexate (231 bệnh nhân). Tỉ lệ bệnh nhân ngưng điều trị do tác dụng phụ là tương đương nhau trong nhóm dùng ENBREL và nhóm giả dược; trong nghiên cứu thứ nhất so sánh với thuốc, tỉ lệ bỏ điều trị cao hơn đáng kể ở nhóm điều trị với methotrexate (10%) hơn là nhóm ENBREL (5%). Trong nghiên cứu so sánh với thuốc thứ hai, tỉ lệ ngưng điều trị, ENBREL (16%), methotrexate (21%) và ENBREL kết hợp với methotrexate (17%). Thêm vào đó, ENBREL cũng được nghiên cứu trong 131 bệnh nhân viêm khớp vảy nến tham gia vào 2 nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược và một nghiên cứu mở kéo dài. Năm trăm lẻ tám (508) bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống được điều trị với ENBREL trong 4 nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược. ENBREL cũng được nghiên cứu trên 1,084 bệnh nhân mảng vảy nến đến 6 tháng trong 3 nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược.
Trong một nghiên cứu mù đôi so sánh với ENBREL với giả dược, phản ứng tại vị trí tiêm là tác dụng phụ gặp nhiều nhất trong nhóm điều trị với ENBREL. Trong số những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp được điều trị trong nghiên cứu so sánh với giả dược, các tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra với tần suất là 4% trên 349 bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 5% trên 152 bệnh nhân điều trị với giả dược. Trong nghiên cứu thứ nhất so sánh với thuốc, các tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra với tần suất là 6% trên 415 bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 8% trên 217 bệnh nhân dùng methotrexate. Trong nghiên cứu thứ hai so sánh với thuốc tỉ lệ tác dụng phụ nghiêm trọng sau 2 năm điều trị là tương đương nhau trong 3 nhóm điều trị (ENBREL 16%, methotrexate 15% và ENBREL kết hợp methotrexate 17%). Trong số bệnh nhân bị mảng vảy nến trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, tần suất tác dụng phụ nghiêm trọng vào khoảng 1% trên 933 bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 1% trên 414 bệnh nhân điều trị với giả dược
Danh sách các tác dụng phụ dưới đây dựa trên kinh nghiệm từ các nghiên cứu lâm sàng trên người trưởng thành và các kinh nghiệm sau khi đưa thuốc ra thị trường.
Trong các hệ thống cơ quan, các phản ứng phụ được liệt kê theo tần suất (số bệnh nhân được cho là có phản ứng phụ), xếp loại theo: rất thường gặp (>1/10); thông thường (>1/100, <1/10); không thông thường (>1/1000, <1/100); hiếm (>1/10,000, <1/1000); rất hiếm (<1/10,000).
Các nhiễm trùng và nhiễm ký sinh trùng
Rất thường gặp: Nhiễm trùng (bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm bàng quang, nhiễm trùng da)*
Không thường gặp: nhiễm trùng nặng (bao gồm viêm phổi, cellulites, viêm tế bào, viêm khớp nhiễm trùng, nhiễm trùng máu)*
Hiếm: Lao phổi
Các rối loạn trong hệ thống máu và bạch huyết
Không thường gặp: Giảm tiểu cầu
Hiếm gặp: Thiếu máu, chứng giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm toàn thể huyết cầu*
Rất hiếm: Thiếu máu bất sản*
Các rối loạn hệ thống miễn dịch
Thường gặp: Phản ứng dị ứng (xem phần Các rối loạn ở da và mô dưới da), hình thành tự kháng thể tự miễn*
Hiếm: Dị ứng nghiêm trọng/phản ứng phản vệ (gồm phù mạch, co thắt phế quản)
Rối loạn hệ thống thần kinh
Hiếm: Co giật
Mất myelin ở hệ thần kinh trung ương do đa xơ hóa hoặc các tình trạng mất myelin khu trú như là viêm dây thần kinh ở mắt và viêm thần kinh thị và viêm tủy cắt ngang (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
Các rối loạn gan mật
Hiếm: Tăng men gan
Các rối loạn da và mô dưới da
Thường gặp: Ngứa
Ít gặp: Phù mạch, mề đay, ban
Hiếm: Viêm mạch ở da (bao gồm viêm mạch leukocytolastic)
Các rối loạn ở hệ cơ xương, mô liên kết và xương
Hiếm gặp: Hồng ban lu pút dưới da bán cấp tính, hội chứng giống lu pút
Các rối loạn thông thường và tình trạng tại vị trí tiêm:
Rất thường gặp: Các phản ứng tại vị trí tiêm (bao gồm chảy máu, vết bầm, ban đỏ, ngứa, đau, sưng)*
Thường gặp: Sốt
Các rối loạn tim
Đã có những báo cáo về tình trạng xấu đi của suy tim sung huyết (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
* Xem các thông tin bổ sung bên dưới
Thông tin bổ sung
Các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng
Trong số các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vảy nến, viêm cứng khớp đốt sống và mảng vảy nến trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, so sánh với thuốc và mở của ENBREL, các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo gồm u ác tính (xem bên dưới), hen suyễn, nhiễm trùng (xem bên dưới), suy tim, nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim, đau ngực, ngất, thiếu máu cục bộ ở não, cao huyết áp, tụt huyết áp, viêm túi mật, viêm tụy, xuất huyết đường tiêu hóa, viêm bao hoạt dịch, lú lẫn, trầm cảm, khó thở, bất thường trong lành sẹo, suy thận, sỏi thận, thuyên tắc tĩnh mạch sâu, thuyên tắc tĩnh mạch phổi, bệnh cầu thận màng, viêm đa cơ, viêm tắc tĩnh mạch, tổn thương gan, giảm bạch cầu, tê, dị cảm, chóng mặt, viêm phế nang dị ứng, phù mạch, xơ cứng, gãy xương, bệnh bạch mạch. Viêm loét đại tràng, tắc ruột, giảm bạch cầu ái toan, tiểu máu, sarcoidosis.
Bệnh ác tính
Một trăm hai mươi chín bệnh ác tính mới thuộc nhiều loại khác nhau được quan sát thấy trong 4,114 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị trong thử nghiệm lâm sàng với ENBREL trong khoảng thời gian lên đến 6 năm, bao gồm 231 bệnh nhân được điều trị với ENBREL kết hợp với methotrexate trong một nghiên cứu có kiểm soát chủ động trong 2 năm. Tỷ lệ và tần suất quan sát được trong những nghiên cứu lâm sàng này tương tự như của quần thể tham gia nghiên cứu. Tổng cộng có khoảng 2 ca ác tính trong 240 bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với ENBREL trong các nghiên cứu lâm sàng khoảng 2 năm. Trong những nghiên cứu dài hơn 2 năm trên 351 bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống, 6 ca ác tính đã được ghi nhận trong số các bệnh nhân được điều trị với ENBREL. Hai mươi ba ca ác tính đã được báo cáo trong các bệnh nhân mảng vảy nến được điều trị với ENBREL trong các nghiên cứu mù đôi và mở kéo dài tới 15 tháng trên 1,261 bệnh nhân được điều trị với ENBREL.
Có khoảng 15 u hạch được báo cáo trong số 5,966 bệnh nhân được điều trị với ENBREL trong các nghiên cứu trên viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vảy nến, viêm cứng khớp đốt sống và vảy nến.
Đã có các báo cáo về nhiều bệnh ác tính (bao gồm carcinoma vú, phổi và u hạch) sau khi đưa thuốc ra thị trường (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
Phản ứng tại chỗ viêm
So sánh với giả dược, những bệnh nhân bệnh thấp được điều trị với ENBREL có tỉ lệ phản ứng tại chỗ tiêm cao hơn đáng kể (36% so với 9%). Các phản ứng tại chỗ tiêm thường xảy ra vào tháng thứ nhất. Thời gian trung bình là khoảng 3 đến 5 ngày. Trong nhóm ENBREL, đa số các phản ứng này không được điều trị và phần lớn bệnh nhân được điều trị bằng các chế phẩm bôi tại chỗ như corticoid hoặc thuốc kháng dị ứng đường uống. Thêm vào đó, một số bệnh nhân phát triển phản ứng viêm nhắc lại tại chỗ chích, biểu hiện bới phản ứng da nơi vừa mới chích xảy ra đồng thời với phản ứng da tại nơi đã chích trước đây. Những phản ứng này thường là thoáng qua và không tái phát khi điều trị.
Trong các nghiên cứu so sánh trên bệnh nhân bị mảng vảy nến, khoảng 14% bệnh nhân điều trị với ENBREL có phản ứng ở chỗ tiêm so với 6% bệnh nhân trong nhóm giả dược trong 12 tuần đầu điều trị.
Nhiễm trùng
Trong các nghiên cứu lâm sàng thực hiện trên bệnh nhân bị rối loạn kiểu thấp, nhiễm trùng đường hô hâp trên ("cảm lạnh") và viêm xoang là những nhiễm trùng được báo cáo thường xuyên nhất ở những bệnh nhân được điều trị với ENBREL, hoặc giả dược. Trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, tỉ lệ nhiễm trùng đường hô hấp trên là 17% ở nhóm giả dược và 22% ở nhóm điều trị với ENBREL. Những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp tham gia vào nghiên cứu so sánh với giả dược, có 0.68 biến cố nhiễm trùng trên mỗi bệnh nhân/năm trong nhóm giả dược và 0.82 biến cố trên mỗi bệnh nhân/năm trong nhóm điều trị với ENBREL. Trong các nghiên cứu đánh giá ENBREL so sánh với giả dược, không thấy tăng tỉ lệ nhiễm trùng nặng (tử vong, đe dọa tính mạng, phải nhập viện hoặc dùng kháng sinh đường tĩnh mạch). Trong số 2,680 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp điều trị với ENBREL lên đến 48 tháng bao gồm 231 người điều trị với ENBREL kết hợp methotrexate trong nghiên cứu kéo dài 2 năm có kiểm soát chủ động, 186 nhiễm trùng nặng được ghi nhận. Các nhiễm trùng nặng này gồm có áp-xe (ở những vị trí khác nhau), nhiễm khuẩn huyết, viêm phế quản, viêm bao hoạt dịch, viêm tế bào, viêm túi mật, tiêu chảy, viêm túi thừa, viêm nội tâm mạc (nghi ngờ), viêm dạ dày ruột, viêm gan B, herpes, loét chân, nhiễm trùng miệng, viêm xương tủy, viêm tai, viêm phúc mạc, viêm phổi, viêm đài bể thận, nhiễm trùng máu, viêm khớp nhiễm trùng, viêm xoang, nhiễm trùng da, loét da, nhiễm trùng đường tiểu, viêm mạch máu, nhiễm trùng vết thương. Trong một nghiên cứu kéo dài 2 năm có kiểm soát chủ động với các bệnh nhân được đơn trị với ENBREL hoặc với methotrexate hoặc EBREL kết hợp methotrexate, tỉ lệ nhiễm trùng nặng trong các nhóm tương đương nhau. Tuy nhiên không thể loại trừ sự kết hợp ENBREL với methotrexate có thể kết hợp với tăng tỉ lệ nhiễm trùng.
Trong các nghiên cứu so sánh với giả dược trên bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến và mảng vảy nến, không có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm trùng trong số bệnh nhân được điều trị với ENBREL và những người sử dụng giả dược. Trong các nghiên cứu trên viêm khớp vảy nến, không có nhiễm rùng nặng ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL. Trong các nghiên cứu mù đôi và hở trên các bệnh nhân mảng vảy nến kéo dài đến 15 tháng, các nhiễm trùng nặng xảy ra trong nhóm điều trị với ENBREL gồm có viêm tế bào, viêm dạ dày ruột, viêm phổi, viêm túi mật, viêm xương tủy và áp xe.
Nhiễm trùng nặng và gây chết đã được báo cáo khi dùng ENBREL, các bệnh sinh đã được báo cáo gồm vi khuẩn, mycobacteria (bao gồm lao phổi), virus và nấm. Một số xảy ra chỉ vài tuần sau khi bắt đầu điều trị với ENBREL ở những bệnh nhân có sẵn bệnh lý từ trước (ví dụ như tiểu đường, suy tim sung huyết, tiền sử bị nhiễm trùng tiến triển hoặc nhiễm trùng mãn tính) bên cạnh tình trạng viêm khớp dạng thấp (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng). Dữ liệu từ nghiên cứu lâm sàng không đặc hiệu trên các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp gợi ý là ENBREL có thể làm tăng nguy cơ tử vong ở những bệnh nhân nhiễm trùng máu đã hình thành.
Kháng thể tự miễn
Các bệnh nhân được test mẫu huyết thanh tìm kháng thể tự miễn vào nhiều thời điểm. Trong số những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được đánh giá về kháng thể kháng nhân (ANA), phần trăm bệnh nhân có phát triển ANA mới dương tính (≥ 1:40), nhóm điều trị với ENBREL (11%) cao hơn so với nhóm giả dược (5%). Phần trăm bệnh nhân phát triển kháng thể chống dải kép DNA mới cũng cao hơn khi xét nghiệm bằng huỳnh quang miễn dịch (15% bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 4% điều trị bằng giả dược) và bằng thử nghiệm. Crithidia luciliae (3% bệnh nhân điều trị với ENBREL, so sánh với không có người nào trong nhóm giả dược). Tỉ lệ bệnh nhân điều trị với ENBREL có phát triển kháng thể kháng lipin của tim tăng với mức tương đồng với các bệnh nhân trong nhóm giả dược. Chưa rõ về tác động khi điều trị dài ngày với ENBREL trên sự phát triển của các bệnh tự miễn.
Hiện chỉ có rất ít các báo cáo của bệnh nhân, bao gồm những bệnh nhân có yếu tố thấp dương tính, đã phát triển các kháng thể tự miễn khác kết hợp với một hội chứng giống lupus hay phát ban tương ứng với lupus da bán cấp hay lupus dạng đĩa trên lâm sàng hoặc sinh thiết.
Thiếu máu toàn phần và thiếu máu giảm sản
Đã có báo cáo về thiếu máu toàn phần và thiếu máu giảm sản sau khi đưa thuốc ra thị trường, một số trường hợp tử vong (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
Xét nghiệm
Dựa trên kết quả của các nghiên cứu lâm sàng, rõ ràng là không cần thêm những xét nghiệm đặc biệt nào ngoài việc điều trị và giám sát bệnh nhân cẩn thận.
Điều trị ENBREL cùng lúc với anakinrra
Trong các nghiên cứu khi bệnh nhân điều trị với ENBREL đồng thời với anakinra, tỉ lệ nhiễm trùng nặng cao hơn so với điều trị đơn thuần với ENBREL và 2% bệnh nhân (3/139) có phát triển giảm bạch cầu trung tính (số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối đếm được < 1000/mm3). Trong khi bị giảm bạch cầu trung tính, một bệnh nhân còn bị viêm tế bào và được chữa khỏi sau khi nhập viện (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng vàTương tác thuốc)
Tác dụng phụ ở bệnh nhi bị viêm khớp không rõ nguyên nhân
Nói chung, tác dụng phụ ở bệnh nhi cũng tương tự về tần suất và kiểu như ở người trưởng thành. Những khác biệt ở người lớn và các xem xét đặc biệt khác được thảo luận trong các đoạn dưới.
Các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo trong một nghiên cứu trên 69 bệnh nhi viêm khớp không rõ nguyên nhân tuổi từ 4 đến 17 bao gồm thủy đậu với các dấu hiệu và triệu chứng viêm màng não vô trùng được điều trị khỏi không có di chứng (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng), viêm dạ dày ruột, trầm cảm/rối loạn nhân cách, loét da, viêm thực quản/viêm dạ dày, sốc nhiễm trùng với Streptococcus nhóm A, tiểu đường loại 1, và viêm mô mềm và viêm ở vết thương sau mổ.
Bốn mưới ba trên 69 (62%) bệnh nhi với viêm khớp không rõ nguyên nhân ở người trẻ bị nhiễm trùng khi đang điều trị với ENBREL trong 3 tháng nghiên cứu (giai đoạn 1, nghiên cứu mở), với tần suất và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng là tương đương nhau trong 58 bệnh nhân đã hoàn tất 12 tháng trị liệu trong nghiên cứu mở kéo dài. Các kiểu nhiễm trùng đã được ghi nhận ở những bệnh nhân viêm khớp người trẻ vô căn nói chung thường là nhẹ và tương tự với những nhiễm trùng thường gặp trên những mẫu bệnh nhi ngoại trú. Kiểu và tỉ lệ tác dụng phụ ở bệnh nhân viêm khớp trẻ vô căn cũng tương tự như ở những bệnh nhân người lớn trong nghiên cứu ENBREL cho bệnh nhân trưởng thành viêm khớp dạng thấp, và đa số là nhẹ. Vài tác dụng phụ được báo cáo thường gặp hơn ở 69 bệnh nhân viêm khớp trẻ vô căn được điều trị với ENBREL trong 3 tháng so với 349 bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp. Các tác dụng phụ này gồm có nhức đầu (19% bệnh nhân, 1.7 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm), buồn nôn (9%, 1.0 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm), đau bụng (19%, 0.74 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm), và nôn mửa (13%, 0.74 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm).
Lưu ý bệnh nhân thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Liều lượng và cách dùng
Điều trị với ENBREL phải được đề nghị và theo dõi bới bác sỹ chuyên khoa có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị viêm khớp dạng thấp Rheumatoid Arthritis, viêm khớp vảy nến Psoriatic Arthritis, viêm cứng khớp đốt sống và Psoriasis
ENBREL có hàm lượng là 25 mg. Mỗi ống ENBREL được pha trong 1ml nước để pha tiêm trước khi thực hiện tiêm dưới da
Bệnh nhân trưởng thành (18-64 tuổi)
Viêm khớp dạng thấp
Liều khuyến cáo là 25 mg ENBREL hai lần/tuần. Có thể thay bằng 50 mg một lần/tuần (như tiêm hai mũi 25 mg gần như cùng lúc) cho thấy có hiệu quả và an toàn (xem phần Dược lực học)
Viêm khớp vảy nến và viêm cứng khớp đốt sống
Liều khuyến cáo là 25 mg ENBREL hai lần/tuần hoặc 50 mg một lần/tuần.
Mảng vảy nến
Liều khuyến cáo của ENBREL là 25 mg hai lần/tuần. Liều 50 mg hai lần/tuần trong 12 tuần tiếp theo, nếu cần thiết có thể xen kẽ với liều 25 mg hai lần/tuần. Điều trị với ENBREL nên liên tục đến khi thuyên giảm cho đến 24 tuần. Nên ngưng thuốc ở những bệnh nhân không có đáp ứng sau 12 tuần điều trị.
Nếu có chỉ định tái điều trị với ENBREL nên tuân thủ hướng dẫn điều trị trên. Liều dùng là 25 mg hai lần/tuần
Bệnh nhân lớn tuổi (≥ 65 tuổi)
Không cần điều chỉnh liều. Cách sử dụng và chích thuốc giống như đối với bệnh nhân trưởng thành từ 18-64 tuổi.
Trẻ em và thiếu niên (≥ 4 đến < 18 tuổi)
0.4 mg/kg (tối đa là 25 mg cho mỗi liều) sau khi pha 25 mg ENBREL trong 1mL nước để pha tiêm, tiêm dưới da 2 lần/tuần với khoảng cách 3-4 ngày giữa các liều.
Suy thận và suy gan
Không cần điều chỉnh liều
Cách dùng
ENBREL được tiêm dưới da và đùi, bụng hay chi trên. Thay đổi vị trí mỗi lần tiêm và cách vị trí cũ ít nhất là 3 cm. Không tiêm vào những vùng da non, đau nhức, bầm máu, đỏ hoặc cứng.
Nếu ENBREL được tiêm bởi bệnh nhân hay thân nhân chăm sóc thì những đối tượng này phải được hướng dẫn về các pha bột với dung môi và kỹ thuật tiêm. Mũi tiêm đầu tiên nên được thực hiện dưới sự giám sát của một nhân viên y tế vững chuyên môn.
Cách pha ENBREL
ENBREL phải được dùng với sự hướng dẫn và giám sát của bác sĩ. Bệnh nhân có thể tự tiêm nếu được phép của bác sĩ khi đã được huấn luyện về kỹ thuật tiêm và có sự theo dõi của bác sĩ.
ENBREL nên được pha trong điều kiện vô trùng với 1mL nước pha tiêm đi kèm. Trong quá trình pha ENBREL, dung môi phải được cho thật chậm vào ống thuốc. Có thể sẽ tạo bọt. Để tránh quá nhiều bọt, không nên lắc hay khuấy động mạnh. Nên xoay tròn nhẹ ống thuốc trong khi hòa tan. Thông thường thì sự hòa tan của ENBREL diễn ra dưới 10 phút. Dung dịch phải trong suốt và không màu.
Trước khi tiêm nên quan sát kỹ dung dịch để tìm xem có những phần tử nhỏ hay có màu bẩn hay không. Không nên tiêm nếu có màu hoặc có vẩn hay có những phần tử nhỏ còn sót lại. Rút dung dịch vào ống tiêm, lấy ra càng nhiều dung dịch càng tốt. Một ít bọt hay bong bóng có thể còn lại trong ống thuốc. Thể tích cuối cùng trong ống tiêm vào khoảng 1 mL.
Không thêm các chất trung gian vào dung dịch ENBREL và cũng không nên pha ENBREL với bất kỳ dung môi nào khác. Không lọc dung dịch trong khi pha hay trước khi tiêm.
Vị trí tiêm bao gồm đùi, vùng bụng hay chi trên. Nên luân phiên thay đổi vị trí tiêm. Các mũi tiêm mới nên cách chỗ tiêm cũ ít nhất 3 cm và không bao giờ tiêm vào vùng da mông, bị thâm tím, đỏ hay cứng (xem phần Hướng dẫn cách pha và tiêm ENBREL cho bệnh nhân trong tờ hướng dẫn)
Cách pha
Pha bột ENBREL trong điều kiện vô khuẩn bằng cách tiêm thật chậm 1 mL dung môi vào ống thuốc. Nhẹ nhàng xoay tròn để tránh tạo bọt. Nếu có một ít bọt là bình thường. Không lắc hay làm rung mạnh. Thuốc tan trong vòng dưới 10 phút.
Tương kỵ
Do chưa có nghiên cứu về tương kỵ, không nên trộn lẫn dược phẩm này với các thuốc khác.
Quá liều
Không quan sát thấy độc tính liên quan đến liều trong quá trình nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Mức liều cao nhất được đánh giá là 32 mg/m2 tiêm tĩnh mạch tiếp theo sau 16 mg/m2 tiêm dưới da hai lần/tuần. Một bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đã tự dùng thuốc đến liều 62 mg ENBREL tiêm dưới da hai lần/tuần trong 3 tuần mà không thấy có tác dụng phụ. Chưa có thuốc giải cho ENBREL.
Bảo quản
Trước khi pha tiêm, bột ENBREL phải được bảo quản ở tủ lạnh từ 2oC đến 8oC.
Không làm đông đá.
Sau khi pha tiêm dùng ngay lập tức. Độ ổn định lý hóa khi dùng đã được chứng minh là 48 giờ ở 2o-8oC. Từ quan điểm vi sinh, nên dùng thuốc ngay lập tức. Nếu không thể sử dụng ngay, nhà sản xuất không chịu trách nhiệm về thời gian bảo quản khi sử dụng và thường không quá 6 giờ ở nhiệt độ từ 2o-8oC, trừ phi thuốc được pha trong những điều kiện vô trùng.