THAM KHẢO THÔNG TIN THUỐC TRỰC TUYẾN




 

Norcuron + Solovent Inj 4mg/ml

Đánh giá

Trạng thái: Còn hàng

SKU: Norcuron + Solovent Inj 4mg/ml

276.000,00 ₫
Norcuron được chỉ định như là chất hỗ trợ trong gây mê để giúp cho sự đặt nội khí quản dễ dàng và tạo sự giãn cơ xương trong quá trình phẫu thuật.

Chi tiết

Dạng bào chế: Bột pha tiêm tĩnh mạch 4 mg 

Qui cách đóng gói: Hộp 5 ống bột đông khô + 5 ống dung môi 1 ml

Thành phần hàm lượng: Cho 1 ống

Vecuronium bromure 4mg

- Ống dung môi : Nước cất pha tiêm 1ml

Tá dược : acid citric monohydrate, disodiumphosphate dihydrate, manitol, sodium hydroxyde và acid phosphoric (để điều chỉnh pH).

Chỉ định
Norcuron được chỉ định như là chất hỗ trợ trong gây mê để giúp cho sự đặt nội khí quản dễ dàng và tạo sự giãn cơ xương trong quá trình phẫu thuật.

Chống chỉ định
Những trường hợp trước đây đã có biểu hiện dị ứng với vecuronium hoặc ion bromure.

Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng
Những điều cảnh giác và cần lưu ý đặc biệt khi dùng thuốc:
Như với các thuốc giãn cơ khác, Norcuron chỉ được dùng trực tiếp hoặc dưới sự giám sát bởi những bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm, đã quen thuộc với tác dụng và cách dùng của những thuốc này.
Vì Norcuron làm giãn các cơ hô hấp nên những bệnh nhân dùng thuốc này cần phải được thông khí cơ học cho đến khi tự thở được.
Nói chung những phản ứng do dị ứng với các thuốc giãn cơ đã được báo cáo. Mặc dù những phản ứng này rất ít thấy với Norcuron, ta luôn luôn phải có những dự phòng cần thiết để chữa trị một khi những phản ứng ấy có thể xảy ra (xem thêm phần Tác dụng ngoại ý).
Vì Norcuron không những có tác dụng trên tim mạch với liều thường dùng trên lâm sàng nên nó không làm giảm nhẹ chứng tim đập chậm có thể xảy ra do dùng một số loại thuốc mê và á phiện hoặc do phản xạ phó giao cảm trong phẫu thuật. Do đó việc xem xét lại vấn đề sử dụng hoặc liều dùng của những thuốc liệt phó giao cảm như atropine trong tiền mê hoặc khi khởi mê có thể có lợi trong những thủ thuật ngoại khoa dễ gây nên những phản ứng phó giao cảm (nghĩa là những thủ thuật ngoại khoa sử dụng những thuốc mê mà ta biết rõ dễ gây nên những kích thích phó giao cảm, những thủ thuật nhãn khoa, phẫu thuật bụng, phẫu thuật hậu môn, trực tràng v.v...)
Hiện nay chưa có đủ những dữ kiện để khuyến cáo sử dụng Norcuron tại Khoa Chăm Sóc Tích Cực (ICU). Giống như những thuốc giãn cơ khác, tình trạng giãn cơ kéo dài tiếp theo sau việc sử dụng dài hạn Norcuron ở những bệnh nhân nặng tại Khoa Chăm Sóc Tích Cực đã có được báo cáo. Điều cần thiết là trong khi cho giãn cơ liên tục, phải cho bệnh nhân đầy đủ thuốc giảm đau, thuốc an thần, và phải theo dõi kiểm báo suốt sự dẫn truyền thần kinh cơ ; hơn nữa thuốc giãn cơ phải được sử dụng với liều lượng được cân nhắc cẩn thận vừa đủ để duy trì ở mức độ phong bế hoàn toàn trực tiếp hoặc dưới sự giám sát của các thầy thuốc lâm sàng có kinh nghiệm, quen thuộc với tác dụng của thuốc và quen dùng những kỹ thuật kiểm báo giãn cơ thích hợp.
Những tình trạng bệnh lý sau đây có thể ảnh hưởng đến dược động học và/hoặc dược lực học của Norcuron :
Bệnh gan và/hoặc bệnh đường mật :
Mặc dù vecuronium bromure được thải chủ yếu qua mật, nhìn chung chỉ ghi nhận được những thay đổi nhẹ của quá trình giãn cơ gây nên bởi Norcuron ở những bệnh nhân có bệnh gan và/hoặc bệnh đường mật. Hơn nữa, những thay đổi này phụ thuộc vào liều dùng. Với liều 0,1 mg vecuronium bromure cho mỗi kg thể trọng, chỉ thấy về phương diện thống kê một sự kéo dài nhẹ không đáng kể thời gian tiềm phục và giảm nhẹ không đáng kể thời gian tác dụng so với những bệnh nhân thường.
Với những liều 0,15 mg và 0,2 mg vecuronium bromure cho mỗi kg thể trọng, sự kéo dài thời gian tiềm phục thậm chí còn ít hơn (0,15 mg/kg) hoặc không có (0,2 mg/kg).
Không có thay đổi nào về thời gian tác dụng được ghi nhận ở nhóm 0,15 mg/kg, trong khi có gia tăng đáng kể thời gian tác dụng và thời gian phục hồi ở nhóm 0,2 mg/kg.
Suy thận :
Với Norcuron, chỉ có những thay đổi nhỏ về thông số dược lực được báo cáo khi sử dụng cho những bệnh nhân suy thận.
Như những thuốc giãn cơ không khử cực khác, ở những bệnh nhân suy thận, có thể có một sự đề kháng có giới hạn với Norcuron. Khi dùng Norcuron cho những bệnh nhân suy thận có thể thời gian tiềm phục và thời gian hồi phục bị kéo dài nhưng rất nhẹ, không đáng kể về mặt lâm sàng.
Thời gian tuần hoàn kéo dài :
Những điều kiện có liên hệ đến thời gian tuần hoàn bị kéo dài như bệnh tim mạch, tuổi già, tình trạng phù nề, làm gia tăng thể tích phân phối có thể góp phần làm gia tăng thời gian tiềm phục của giãn cơ.
Bệnh thần kinh cơ :
Cũng như với các thuốc giãn cơ khác, phải dùng Norcuron hết sức cẩn thận ở những bệnh thần kinh cơ hoặc sau khi bị bại liệt vì sự đáp ứng với thuốc giãn cơ có thể thay đổi đáng kể ở những trường hợp này. Tầm mức và chiều hướng của sự thay đổi cũng khác biệt một cách rộng rãi.
Ở những bệnh nhân bị bệnh nhược cơ hoặc bị hội chứng Eaton Lambert, những liều nhỏ của Norcuron cũng có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng và cần phải điều chỉnh liều lượng của Norcuron tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.
Hạ nhiệt độ :
Trong những ca mổ hạ thân nhiệt, tác dụng giãn cơ của Norcuron được kéo dài.
Những điều kiện làm tăng tác dụng của Norcuron là : giảm kali huyết (ví dụ sau ói mữa dữ dội, tiêu chảy và cho thuốc lợi tiểu), giảm Mg huyết, giảm Ca huyết (sau truyền máu khối lượng lớn), giảm protein huyết, mất nước, toan huyết, ưu thán, suy kiệt.
Do đó những rối loạn điện giải trầm trọng, pH máu đổi hoặc mất nước cần phải được điều chỉnh mỗi khi có thể được.

Tác dụng trên khả năng lái xe và sử dụng máy móc :
Không nên sử dụng máy móc đặc biệt nguy hiểm hoặc lái xe trong vòng 24 giờ sau khi đã hồi phục hoàn toàn khỏi tác dụng giãn cơ của Norcuron .

Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Chưa có đủ dữ kiện về việc sử dụng Norcuron cho vật và người khi mang thai để đánh giá những hiểm nguy cho thai nhi. Chỉ nên dùng Norcuron cho thai phụ khi thầy thuốc quyết định là trong tình huống ấy nó có lợi nhiều hơn là có hại.
Chưa biết vecuronium có được tiết ra theo sữa mẹ hay không.

Mổ lấy thai :
Những nghiên cứu với Norcuron, dùng với liều từ 0,1 mg trở xuống, đã chứng tỏ là nó an toàn cho phẫu thuật mổ lấy thai.
Norcuron không ảnh hưởng gì đến bảng điểm Apgar, đến tính cường cơ của thai nhi cũng như sự thích ứng hô hấp-tuần hoàn. Những mẫu thử nghiệm lấy từ máu của cuống rốn rõ ràng cho thấy chỉ có một lượng rất nhỏ Norcuron qua nhau và điều đó đã không cho thấy một ảnh hưởng tai hại nào về mặt lâm sàng trên trẻ sơ sinh.
Ghi chú :
Hóa giải giãn cơ gây nên bởi Norcuron có thể trở thành vô hiệu quả ở những thai phụ bị nhiễm độc thai nghén có điều trị với Mg sulfate liều dùng của Norcuron phải giảm và cân nhắc một cách cẩn thận tùy theo sự đáp ứng với kích thích đơn.

Tương tác thuốc
Những thuốc sau đây đã chứng tỏ có ảnh hưởng đến tầm mức hoạt động và/hoặc thời gian tác dụng của những dược chất giãn cơ không khử cực :
Gia tăng tác dụng :
- Thuốc mê :
- halothane, ether, enflurane, isoflurane, methoxyflurane, cyclopropane.
- liều cao của thiopentone, methohexitone, ketamine, fentanyl, γ-hydroxyputyrate, etomidate, propofol.
- Những thuốc giãn cơ không khử cực khác.
- Succinylcholine được sử dụng trước đó.
- Những dược chất khác :
- kháng sinh : aminoglycoside và polypeptide, acylaminopenicilline, liều cao của metronidazole.
- thuốc lợi tiểu, thuốc phong bế β giao cảm, thiamine, IMAO, quinidine, protamine, thuốc phong bế α giao cảm, muối Mg.
Giảm tác dụng :
- Neostigmine, edrophonium, pyridostigmine, chuyển hóa chất của aminopyridine.
- Sử dụng lâu dài trước đó coricosteroids, phenytoine hoặc carbamazepine.
- Noradrenaline, azathioprine (chỉ có tác dụng thoáng qua và giới hạn), theophylline, Ca chlorure.
Tác dụng thay đổi :
Thuốc giãn cơ khử cực, như succinylcholine, nếu cho sau khi đã dùng Norcuron có thể làm gia tăng hoặc suy giảm tác dụng giãn cơ của Norcuron.

Tác dụng ngoại ý
Những phản ứng quá mẫn và những phản ứng dạng phóng histamine :
Phản ứng quá mẫn : 
Những phản ứng quá mẫn với các thuốc giãn cơ nói chung đã được báo cáo. Mặc dù những phản ứng này rất hiếm xảy với Norcuron, phải luôn luôn có những cảnh giác cần thiết để điều trị nếu như chúng xảy ra.
Đặc biệt trong trường hợp trước đây đã có phản ứng quá mẫn với các thuốc giãn cơ cần phải thận trọng hết sức vì sự dị ứng chéo giữa các thuốc giãn cơ đã được báo cáo.
Sự phóng thích histamine và những phản ứng dạng histamine :
Vì các thuốc giãn cơ đều được biết rõ là có khả năng phóng thích histamine tại chỗ cũng như toàn thân, cho nên khi sử dụng thuốc này cần phải luôn luôn lưu ý đến khả năng có thể xảy ra những phản ứng tại chỗ tiêm như ngứa, nổi mẩn đỏ và/hoặc những phản ứng toàn thân do histamine như là co thắt phế quản và những thay đổi về tim mạch.
Những thử nghiệm tiêm trong da của Norcuron đã chứng minh rằng dược chất này chỉ có khả năng yếu gây phóng thích histamine tại chỗ. Những nghiên cứu trên con người đã không chứng minh được có sự gia tăng lượng histamine đáng kể nào trong máu sau khi tiêm tĩnh mạch Norcuron. Hơn nữa, những trường hợp như thế ít thấy được báo cáo trong khi Norcuron được dùng một cách rộng rãi.

Liều lượng và cách dùng
Liều lượng :
Cũng như những thuốc giãn cơ khác, liều dùng của Norcuron thay đổi theo từng bệnh nhân. Khi xác định liều dùng cần phải xét đến kỹ thuật gây mê, thời gian mổ, sự tương tác có thể xảy ra với những thuốc đã dùng và/hoặc đang dùng trong lúc gây mê cũng như tình trạng người bệnh. Nên dùng máy kích thích cơ thần kinh ngoại biên để theo dõi tình trạng phong bế cũng như hồi phục cơ. Những liều lượng sau đây có thể được dùng như hướng dẫn chung cho liều đơn tiêm mạch khi khởi đầu và duy trì Norcuron để đảm bảo sự giãn cơ thích hợp trong những thủ thuật ngoại khoa ngắn hay kéo dài với kỹ thuật gây mê cân bằng có hay không có dùng Norcuron để đặt nội khí quản cho dễ dàng.
Người lớn và trẻ em (xem cách dùng trong Nhi khoa) :
Liều đặt nội khí quản : 0,08 đến 0,1 mg vecuronium bromure cho mỗi kg thể trọng.
Liều Norcuron cho các thủ thuật ngoại khoa sau khi đặt nội khí quản với succinylcholine : 0,03 đến 0,05 mg veruronium bromure cho mỗi kg thể trọng.
Nếu dùng succinylcholine để đặt nội khí quản thì phải đợi cho bệnh nhân hồi phục khỏi tác dụng giãn cơ của succinylcholine về mặt lâm sàng thì mới dùng tiếp Norcuron.
Liều duy trì : 0,02 đến 0,03 mg vecuronium cho mỗi kg thể trọng. Tốt nhất là những liều duy trì này chỉ nên cho khi chiều cao của kích thích đơn (twitch) đã hồi phục 25% so với chiều cao của kích thích đơn chuẩn (control twitch).
Ghi chú :
- Ở những bệnh nhân mập phì nên giảm liều vì khối lượng cơ bắp toàn cơ thể giảm.
- Vì thuốc mê dùng qua đường hô hấp làm tăng tác dụng của Norcuron (xem phần Tương tác thuốc) cho nên thường phải giảm liều Norcuron trong những ca mổ có sử dụng thuốc mê qua đường hô hấp.
- Ở một số bệnh nhân nếu cần phải dùng những liều đầu tiên từ 0,15 mg đến 0,3 mg vecuronium cho mỗi kg thể trọng trong phẫu thuật gây mê với halothane và gây mê neurolept, người ta cũng không ghi nhận được những ảnh hưởng xấu nào trên tim mạch nếu như hô hấp của bệnh nhân vẫn được duy trì tốt. Về phương diện dược lực, những liều cao của Norcuron làm giảm bớt thời gian tiềm phục (tiềm thời) và làm tăng thời gian tác dụng (xem phần Dược lực).
- Trong mổ lấy thai và phẫu thuật trẻ sơ sinh không nên vượt quá liều 0,1 mg/kg.
Trẻ sơ sinh và bé dưới một tuổi :
Vì có thể có những khác biệt về độ nhạy cảm của vùng tiếp hợp thần kinh cơ đặc biệt ở trẻ sơ sinh (dưới 4 tuần) và có thể ở những trẻ lớn hơn (4 tháng tuổi trở xuống) người ta khuyên nên dùng liều trắc nghiệm ban đầu 0,01 đến 0,02 mg vecuronium bromure cho một kg thể trọng sau đó tăng dần cho đến khi đạt được 90 đến 95% sự suy giảm của đáp ứng kích thích đơn (twitch). Liều dùng cho những trẻ từ 5 tháng tuổi tới một tuổi thì cũng giống như người lớn. Tuy nhiên ở những em bé này thời gian tiềm phục Norcuron ngắn hơn rất nhiều so với người lớn và những bé lớn tuổi hơn, cho nên thường không phải dùng liều cao để sớm tạo điều kiện tốt cho việc đặt nội khí quản.
Vì thời gian tác dụng và thời gian hồi phục của Norcuron dài hơn ở sơ sinh và nhũ nhi so với trẻ em và người lớn nên những liều dùng để duy trì sẽ thưa hơn (xem thêm cách dùng trong Nhi khoa).
Liều dùng của Norcuron để truyền tĩnh mạch liên tục :
Nếu dùng Norcuron truyền tĩnh mạch liên tục, nên khởi đầu với một liều đơn trước (ED90 hoặc 2 x ED90), và khi sự phong bế thần kinh cơ bắt đầu hồi phục thì bắt đầu truyền Norcuron tĩnh mạch.
Cần điều chỉnh tốc độ truyền để duy trì đáp ứng với kích thích đơn (twitch) ứng với 10% chiều cao của kích thước đơn chuẩn (control twitch height).
Ở người lớn, tốc độ truyền cần thiết để duy trì giãn cơ ở mức độ này là 0,8 đến 1,4 mcg vecuronium bromure/kg /phút. Ở trẻ sơ sinh và trẻ em, xem ở phần trên. Kiểm báo mức độ giãn cơ cần phải được lặp đi lặp lại vì tốc độ truyền cần thiết cho mỗi bệnh nhân thay đổi từ người này sang người khác và tùy thuộc phương pháp vô cảm được sử dụng.

Cách dùng :
Norcuron được dùng sau khi đã pha.

Hướng dẫn sử dụng
Pha thuốc :
Thêm vào 1 ml nước pha tiêm sẽ có một dung dịch đẳng trương pH = 4, chứa 4 mg vecuronium bromure trong 1 ml (4 mg/ml).
Cách khác, để có một dung dịch nồng độ thấp hơn, Norcuron 4 mg có thể được pha với một thể tích tương ứng tới 4 mg với những dịch truyền sau đây:
Dung dịch 5% glucose.
Dung dịch 0,9% Natri chlorure.
Dung dịch Lactat Ringer.
Dung dịch Lactat Ringer và 5% glucose
Dung dịch glucose 5% và 0,9% Natri chlorure.
Sự tương hợp :
Norcuron có thể được tiêm vào đường dây dịch truyền đang chảy có chứa những thuốc sau đây : fentanyl, droperidol, nicomorphine hydrochloride và pancuronium bromure.
Nghiên cứu về sự tương hợp với các thuốc khác chưa được thực hiện.
Khi Norcuron được pha với nước dùng pha tiêm, dung dịch thuốc có thể hòa chung với những dịch truyền sau đây trong những chai bằng chất PVC hoặc thủy tinh để có thể hòa loãng tới 40 mg/l.
- 0,9% Natri chlorure,
- 5% glucose,
- Dung dịch Ringer,
- Ringer Glucose.
Những dung dịch kể trên khi pha xong cũng có thể được tiêm vào đường truyền đang chảy của những dịch sau đây :
- Dung dịch Lactat Ringer,
- Dung dịch Lactat Ringer và 5% glucose,
- Glucose 5% và Natri chlorure 0,9%,
- Haemaccel,
- Dextran 40 trong dung dịch Natri chlorure 0,9%.
Những nghiên cứu về sự tương hợp với những dịch truyền khác chưa được thực hiện.

Quá liều
Trong tình huống dùng quá liều thuốc và tình trạng giãn cơ kéo dài, bệnh nhân cần được thông khí cơ học và một chất kháng cholinesterase (như neostigmine, pyridostigmine, edrophonium) với liều đầy đủ phải được dùng làm thuốc hóa giải. Khi thuốc kháng cholinesterase không thể hóa giải được tác dụng giãn cơ của Norcuron, việc thông khí cho bệnh nhân cần được tiếp tục cho đến khi hô hấp tự nhiên được vãn hồi. Lặp lại liều dùng thuốc hóa giải kháng cholinesterase có thể gây nguy hiểm.

Bảo quản
Norcuron cần được tồn trữ ở nhiệt độ dưới 25°C, không có tác dụng của ánh sáng.
Norcuron có thể được lưu giữ cho đến ngày hết hạn chỉ rõ trên hộp thuốc, miễn là được bảo trì trong những điều kiện đã được ấn định.
Thời gian lưu giữ ở tủ thuốc của Norcuron 4 mg là 3 năm.
Khi thuốc được pha đúng như phần "Hướng dẫn pha thuốc", hoặc được hòa loãng như mô tả trong phần "Tương hợp của thuốc", dung dịch có thể được lưu giữ trong vòng 24 giờ ở nhiệt độ trong phòng (15-25°C) và dưới ánh sáng thường nhật. Khi việc pha và hòa loãng thuốc không được thực hiện trong điều kiện vô trùng chặt chẽ, dung dịch sau khi pha và dung dịch hòa loãng, về phương diện vi sinh, không nên giữ lâu hơn 12 giờ ở nhiệt độ trong phòng (15-25°C). Tuy thế để tránh bị nhiễm vi sinh, nên loại bỏ dung dịch không dùng đến.

Tags cho sản phẩm

Tag là những từ bạn dùng tựa như nhãn tên để mô tả. Tag giúp bạn dễ dàng tìm đọc các sản phẩm. Mỗi Tag để cách nhau một khoảng trắng. Sử dụng dấu('') cho các Tag là cụm từ. Ví dụ Tag của tôi muốn thêm là:'thực phẩm chức năng' 'thuốc tây' vitamin...

Đánh giá của bạn về sản phẩm này

Bạn đang nhận xét về: Norcuron + Solovent Inj 4mg/ml